73. [Kinh Dịch] Dịch Kinh giản lược
Bài này chủ yếu sao chép nội dung từ link: https://nhantu.net/DichHoc/THUONGKINH/TK_DKGL.htm
Mục đích: tóm gọn lại một số ý và tránh bị lạc mất nếu website có sự cố
I. ÍT NHIỀU NHẬN ĐỊNH VỀ QUẺ, THOÁN, HÀO
1. Nhận định về quẻ
Quẻ có quẻ đơn và quẻ kép.
Quẻ Đơn. Quẻ Đơn gồm 8 quẻ; mỗi quẻ có 3 vạch (Hào):
Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài
Quẻ Đơn tượng trưng cho Vạn Vật, Vạn Hữu
Quẻ Kép. Quẻ Kép gồm 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 Hào.
Quẻ Kép tượng trưng cho hết mọi biến hóa, mọi tình trạng, mọi hoàn cảnh mà Vạn hữu và Nhân quần gây nên trong khi giao tiếp với nhau. Thượng Kinh và Hạ Kinh viết lại 64 quẻ , tức là đưa ra 64 hoàn cảnh tượng trưng, để dạy con người phương pháp xử sự cho khéo léo, tùy theo mỗi hoàn cảnh mình gặp.
Quẻ Kép gồm 2 quẻ đơn, ta gọi:
-Quẻ phía dưới là Nội Quái
-Quẻ phía trên là Ngoại Quái
Vì mỗi hoàn cảnh có nhiều khía cạnh, nhiều giai đoạn, nhiều nhân vật bị dính dấp ảnh hưởng, nên mỗi quẻ lại có 6 Hào. Sáu Hào cốt là để nói lên cho rõ ràng:
-
Mọi khía cạnh, mọi trạng thái biến thiên của hoàn cảnh.
-
Mọi giai đọan của một công trình.
-
Mọi tầng lớp trong xã hội, đang cùng chia xẻ một hoàn cảnh
-
Những trường hợp khác nhau, có thể xảy ra cho từng hạng người sống cùng chung một hoàn cảnh..
Dịch Kinh dùng 11 chữ để xét đoán hay dở:
1) Nguyên
= chí thiện,
= nguyên thủy (gốc gác vạn hữu)
= lớn, mạnh, hào hùng, cao đại.
2) Hanh
= Thông suốt (hanh thông)
= Chí mỹ (Gia chi hội - Văn ngôn)
3) Lợi
= Lợi, thuận nhân tâm, thích nghi, thích đáng.
4) Trinh
= Chính, bền, thành đạt, bền vững, hằng cửu, chủ chốt, chủ đích của mọi việc.
5) Cát
= Tốt, được, thành công.
6) Hung
= Xấu, mất, thất bại.
7) Hối
= Hối lận, ưu lự, băn khoăn.
8) Lận
= Xấu hổ.
9) Lệ
= Nguy hiểm.
10 & 11) Vô cữu
= là không có lỗi.
2. Hào
Trong 1 hoàn cảnh có nhiều khía cạnh, nhiều nhân vật liên hệ, quẻ là một hoàn cảnh, nên cũng lấy các Hào mà tượng trưng cho sự diễn biến của hoàn cảnh, những khía cạnh khác nhau của hoàn cảnh, những nhân vật liên hệ đến hoàn cảnh. Hào có Hào Tài & Hào Vị.
Hào Tài
là bản chất của từng Hào, tài đức của từng Hào. Hào Tài được diễn tả bằng Âm và Dương.
Âm Hào (__ __) tượng trưng cho những kẻ tiểu nhân, hoặc những người bất tài, nhu nhược.
Dương Hào (_____) tượng trưng cho quân tử, người tài cán, cương nghị.
Hào Vị
Mỗi quẻ Kép có 6 vị ngôi, tức là 6 Hào
Mỗi một hào mang một số thứ tự tính từ dưới lên trên : 1, 2, 3, 4, 5, 6 có tên là Hào Sơ, Hào Nhị, Hào Tam, Hào Tứ, Hào Ngũ và Hào Thượng.
Số lẻ 1, 3, 5 là vị Dương. Số chẵn 2, 4, 6 là vị Âm.
Tùy Hào tài là Dương hay Âm, ta dùng thêm chữ Cửu hay Lục. Từ dưới lên trên ta xưng danh như sau:
-
Nếu là Dương Hào ta có: Sơ Cửu, Cửu Nhị, Cửu Tam, Cửu Tứ, Cửu Ngũ, Thượng Cửu.
-
Nếu là Âm Hào ta có: Sơ Lục, Lục Nhị, Lục Tam, Lục Tứ, Lục Ngũ, Thượng Lục.
Hào Vị có nhiều công dụng:
a) Nó biểu dương không gian TRÊN, DƯỚI, GIỮA.
b) Thời gian: ĐẦU, GIỮA, CUỐI.
c) Các tầng lớp xã hội từ lê thứ, đến quan, vua, đến miếu mạo, triều ca.
d) Nó xác định ngôi vị của từng nhân vật.
e) Các giá trị tinh thần từ thấp đến cao.
f) Chiều hướng biến hóa từ trong ra ngoài, hoặc từ ngoài vào trong. Từ dưới lên trên là biến chuyển từ trong ra ngoài.
TRUNG CHÍNH & BẤT TRUNG BẤT CHÍNH
-
Hào 2 và 5 là Trung Hào, nên gọi là Trung.
-
Hào 3, 4 chẳng hạn, không phải Hào giữa nên gọi là Bất trung.
-
Hào Dương cư Dương vị, hào Âm cư Âm vị gọi là Chính.
-
Hào Dương cư Âm vị, hào Âm cư Dương vị gọi là Bất chính.
Trung chính & Bất trung chính cốt để chỉ 2 sự kiện:
1) Trung là những người thành khẩn, trung thực, có lương tâm chức nghiệp, tận tụy vì công vụ.
2) Chính là những người được dùng vào những ngôi vị, những công việc xứng với tài đức của mình.
Bất trung chỉ những người gian ngoan, không thành khẩn.
Bất chính chỉ những người sống trong những địa vị bất xứng, không thích hợp với tài đức của mình, ví như dốt nát, bất tài mà lại ở địa vị cao (Âm cư Dương vị); hoặc có tài, có đức mà không được trọng dụng, không được đặt vào những chức vị xứng đáng (Dương cư Âm vị) Nhân đó ta suy ra được tình trạng hay dở rất nhiều.
ỨNG & TỈ
Ứng
Mỗi người trong xã hội lại có một số người hỗ trợ, hay không hỗ trợ, Dịch kinh diễn tả sự kiện này bằng ỨNG HÀO . ỨNG HÀO thì
1 ứng với 4
2 ứng với 5
3 ứng với 6
*Âm ở dưới ứng Dương ở trên thì phải hiểu là tiểu nhân dựa thế quân tử, tiểu nhân dựa thế lực người có quyền thế ở trên, như vậy đâu có hay.
*Dương ở trên ứng với Âm ở dưới thì phải hiểu là người trên hay, mà người dưới dở, không giúp ích được bao lâu.
*Âm lại gặp Âm, Dương lại gặp Dương thì thường phải hiểu là một người hoạt động đơn độc, không người hỗ trợ.
*Nhưng ở Hào ngũ, Hào nhị, nếu Cửu Ngũ mà lại gặp Cửu Nhị thì có thể hiểu là Minh quân lại gặp Hiền thần. (Xem Kiền)
TỈ
Tỉ : là thân cận, là sống kế cận nhau.
ỨNG là nói 2 Hào cách xa nhau, TỈ là nói 2 Hào kề cận nhau. Phàm gần nhau phải giống tính, giống nết nhau mới tốt. Vì thế Âm cận Hào Âm mới tốt, Dương cận Hào Dương mới hay. Còn như Âm bên Dương, Dương bên Âm, vì một đằng Cương, một đằng Nhu, một đằng quân tử, một đằng tiểu nhân, một đằng hữu tài, một đằng vô tài, nên thường khủng khiểng, kèn cựa.
Nếu Âm ở dưới Dương, tức là kẻ bất tài nhường nhịn người có tài.
Nếu Âm ở trên Dương, tức kẻ vô tài mà lại trèo đầu, cưỡi cổ người có tài thì sẽ sinh lắm chuyện.
-
Trường hợp quị lụy, nhường nhịn, Dịch gọi là THỪA
-
Trường hợp đè đầu, cưỡi cổ, Dịch cũng gọi là THỪA.
Như vậy, để đoán định CÁT, HUNG, Dịch theo những tiêu chuẩn sau đây:
1) Địa vị phải xứng kỳ đức mới hay.
2) Làm việc gì phải có người hỗ trợ, hưởng ứng, phụ bật mới hay.
3) Không hợp nhau, mà xa nhau thì còn khả trợ, vì không giao tiếp với nhau. Nhưng đã không hợp nhau mà phải sống bên nhau, thật là căn cớ mọi hung họa.
4) Thành khẩn mà đối đãi nhau mới hay. Giả dối mà đối đãi với nhau thật là điều tai hại.
5) Và như vậy, cả bộ Dịch khuyên ta phải ở những nơi, giữ những công việc thích hợp với tài đức mình, giao thiệp với những người đồng tâm, đồng chí với mình.vv…
II. ÁP DỤNG NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA DỊCH KINH VÀO CUỘC ĐỜI
Áp dụng nguyên tắc Dịch kinh để đoán định công việc ta làm hay, hay dở
Phàm một công việc ta làm, muốn biết là dở, hay hay, ta sẽ phân tách nó theo những tiêu chuẩn sau đây:
-Lý: Minh chính hay tà khuất.
-Tình: Thành khẩn hay giả dối, đắc ý hay không đắc ý. Ta thích làm hay làm miễn cưỡng.
-Tài: Ta là người có chân tài hay không?
-Đức: Ta là người có đức hay không?
-Thời: Công việc ta làm có hợp thời hay không?. Có hợp với tuổi ta không?.
-Vị: Địa vị và hoàn cảnh của ta chính đáng, hay không?, thích hợp với ta hay không?
-Sự hiểu biết của ta về công việc: Ta có am tường công việc này hay không?
-Sự chuẩn bị của ta: Làm công việc này ta có chuẩn bị chu đáo hay không?
-Ứng: Ta làm công việc này có người giúp hay không, có người hưởng ứng hay không? Có bị ai phá phách, gàng quải hay không?
-Cát Hung: Ta làm công việc này để thành công, hay là để thất bại?
-Hối lận: Ta làm công việc này có bị lương tâm phiền trách hay không? Có bị người đời đàm tiếu hay không. Ta sung sướng, hãnh diện mỗi khi nghĩ đến công việc ta làm, hay trái lại nó làm ta xấu hổ.
-Lệ, Vô Cữu: Khi làm công việc này, mỗi khi ta thấy ta sai đường, lạc lối, mỗi khi ta thấy ta lầm lẫn, ta sẽ có thực tình sửa đổi đường lối hay không?
Nếu xét từng tiêu chuẩn, mà ta thấy phải trả lời là không, thì việc của ta là không hay, đừng có làm. Như vậy, là ta theo đúng đường lối của Trời Đất, theo đúng Mệnh Trời.
MỖI KHI TA TÍNH TOÁN MỘT CÔNG VIỆC GÌ, MỖI KHI TA LÂM VÀO MỘT HOÀN CẢNH NÀO, ta phải:
1) Nghiên cứu, tìm hiểu công việc hay hoàn cảnh ta cho tận tường.
-
Tìm xem những yếu tố nào đã gây nên hoàn cảnh này.
-
Xem ai làm chủ chốt, ai làm chốt, làm nọc trong hoàn cảnh này.
-
Ta có can dự nào đối với hoàn cảnh. Trực tiếp bị ảnh hưởng, gián tiếp bị ảnh hưởng, hay không bị ảnh hưởng?
2) Nghiên cứu các lực lượng bạn và thù.
3) Nghiên cứu các vấn đề cần phải giải quyết.
4) Nghiên cứu xem các khó khăn vấp phải.
-
Vượt tầm giải quyết của ta.
-
Vừa tầm giải quyết của ta.
-
Ta có thể giải quyết dễ dàng với tài sức ta.
5) Hoàn cảnh ta gặp, công việc ta tìm đang ở vào thời kỳ nào: đầu hay đuôi.
6) Hoàn cảnh ta đang gặp, thuận lợi hay không thuận lợi đối với ta.
Tóm lại, Dịch Kinh muốn dạy ta những điều chính yếu sau đây trong cuộc sống hàng ngày:
- Muốn làm việc gì phải thông suốt vấn đề, nghiên cứu tỉ mỉ, phân tách công việc ra thành từng giai đoạn, phải biết tiên liệu những đường đi, nước bước của mình, tiên đoán những trường hợp mình sẽ gặp phải, chương trình hoạt động của mình phải có mục phiêu sáng suốt rõ ràng, những phương thế để đạt mục phiêu ấy phải được hoạch định, nghiên cứu tỉ mỉ. Phải chọn người cộng tác có tài đức, khả dĩ thi hành được công việc cho đến thành công.
-Muốn đối phó hoàn cảnh cho xuôi xắn, phải biết tùy thời xử thế. Lúc cương, lúc nhu, khi mạnh thì cương, khi yếu thời nhu, phải luôn luôn theo đường lối tự nhiên, công chính và phổ quát.
-Trong khi hành sự, phải bình tĩnh, sáng suốt, bình dị, đừng có rối rắm, đừng có phức tạp cầu kỳ.
-Đừng làm gì để cho lương tâm, người đời chê trách. Đừng làm gì để di hại đến tinh thần, thể xác, hoàn cảnh, sự nghiệp, danh giá của mình.
-Gặp nguy biến, phải ẩn lánh để bảo toàn tấm thân.
-Gặp lúc thuận tiện, phải đem tài năng, đức độ ra giúp nước, giúp dân.
-Không cộng tác với bạo chúa, cường quyền.
-Chỉ cộng tác với người tài đức, vì dân, vì nước.
-Không thân cận với kẻ tiểu nhân, với người ác đức. Khi cần giao thiệp với họ, phải giữ gìn cho lắm.
-Phải tránh những sự giao thiệp giả dối.
-Đối với mọi người, cần sự thành khẩn.
-Không có tài, đừng ham địa vị cao.
-Không phải việc mình, đừng rây vào. Những nguy hiểm có thể tránh được thì nên tránh, đừng có dấn thân vào. Nếu chúng ta giữ được như vậy, thì công việc chúng ta thi hành thường được trôi chẩy, cuộc đời chúng ta luôn được vui tươi như ý.
Dịch Kinh đã dạy chúng ta những tôn chỉ chính xác, để hướng dẫn hành động chúng ta cho chúng ta trở nên hoàn bị. Có những tư tưởng sáng suốt, những tôn chỉ chính xác, mục phiêu cao cả, những hành vi, cử chỉ, tác phong hợp lý hợp nghĩa, tức là có những phương tiện để tiến tới hoàn thiện, trở thành Thánh Hiền.